Mặt lợi của lưu đày – E.M. Cioran

Người ta thật sai lầm khi nghĩ những người xa xứ như những kẻ từ bỏ, thoái lui và hạ thấp bản thân, họ cam chịu nỗi thống khổ, trạng thái bị ruồng bỏ của mình. Khi nhìn gần hơn, hóa ra kẻ ấy lại đầy tham vọng, quyết liệt trong chính nỗi thất vọng, chính tính hiếu chiến của y tạo điều kiện cho sự cay độc. Chúng ta càng bị truất hữu thì sự thèm muốn và ảo tưởng của ta càng mãnh liệt. Tôi thậm chí còn nhận thấy mối tương giao giữa bất hạnh và chứng hoang tưởng tự đại. Người mất đi tất tật thứ bảo toàn hy vọng vinh quang hay bê bối văn chương như phương sách cuối cùng. Hắn đồng thuận bỏ lại mọi thứ, ngoại trừ tên mình. Nhưng liệu hắn sẽ áp đặt tên mình thế nào khi viết bằng ngôn ngữ mà những người văn minh hoặc không biết đến, hoặc khinh miệt?

Liệu hắn có mạo hiểm dấn thân vào cách biểu đạt khác? Hắn sẽ thấy việc từ bỏ từ ngữ mà quá khứ của mình xoay quanh không hề dễ. Một người khi khước từ ngôn ngữ của mình để đổi lấy ngôn ngữ khác, hắn sẽ thay đổi danh tính, thậm chí chính cả sự thất vọng của mình. Là một anh hùng bội giáo, đến ngưỡng nhất định hắn phá vỡ ký ức và chính bản thân. 

*

Chúng ta có thể giả sử một người viết một cuốn tiểu thuyết qua một đêm giúp y thành người nổi tiếng. Trong đó y thuật lại những đau khổ của mình. Những người đồng xứ trong cảnh lưu đày ghen tị với y: chính họ cũng đau khổ, thậm chí còn nhiều hơn thế. Và người không quốc gia trở thành – hoặc nguyện vọng trở thành – một tiểu thuyết gia. Hậu quả là sự tích lũy những hỗn độn, thổi bùng của những cơn kinh hoàng, những cơn rùng mình lỗi thời1. Người ta không thể tiếp tục dựng lại Địa ngục với đặc điểm đơn điệu, hay chẳng thể thay đổi bộ mặt của Lưu đày. Không có thứ gì trong văn chương chọc tức độc giả nhiều như Điều Khủng Khiếp2; trong cuộc đời, nó nhuốm màu quá hiển nhiên để khuấy động hứng thú của chúng ta. Nhưng tác giả vẫn kiên trì; tại thời điểm này hắn ta chôn vùi tiểu thuyết trong một ngăn kéo và chờ đến thời giờ của mình.  Ảo tưởng về một điều bất ngờ, về sự nổi tiếng né tránh nỗ lực nắm bắt mà hắn suy tính đến, duy trì hắn; y sống nhờ sự hư ảo. Tuy nhiên, đó chính là sức mạnh của ảo tưởng mà nếu giả như anh ta làm việc trong một nhà máy, với ý niệm trốn thoát khỏi cảnh ấy từ ngày này qua ngày khác nhờ danh tiếng đột ngột không tưởng.

*

Bi kịch tương đương là trường hợp của thi sĩ. Vây quanh bởi ngôn ngữ của mình, hắn ta viết cho bằng hữu – tầm mười, hai mươi người tối đa. Niềm mong mỏi tác phẩm của mình được đọc cần kíp không kém gì mong đợi của tiểu thuyết gia ứng tác. Chí ít hắn có lợi thế hơn tiểu thuyết gia ở chỗ có thể đăng được thơ trên một tạp chí émigré3 nhỏ, tác phẩm xuất hiện với cái giá phải hy sinh và buông bỏ thiếu đứng đắn. Chúng ta có thể nói một người như vậy trở thành – biến đổi bản thân – thành một biên tập viên của một tờ tạp chí như vậy; để những bài đăng của mình sống anh ta chấp nhận rủi ro chịu đói, tránh khỏi thú gái gú, chôn vùi bản thân trong căn phòng không cửa sổ, áp đặt sự thiếu thốn đến choáng ngợp và kinh hoàng.  Lao phổi và thủ dâm chính là vận mệnh của y.

Bất kể số lượng émigré ít ỏi như nào, họ lập nên những hội nhóm, không phải để bảo vệ lợi ích mà để lập các quỹ quyên góp, để rút máu nhau đến khi trắng bệch để xuất bản những nuối tiếc, những lời than van, những lời kêu gọi không hồi đáp. Người ta không thể mường tượng một dạng bi kịch vô ích nào đau lòng hơn thế.

Việc họ là những nhà thơ giỏi nhưng lại là những người viết văn xuôi dở có thể dễ dàng lý giải. Xét đến công việc sản xuất văn chương ở bất kỳ quốc gia “thứ yếu” nào, những quốc gia này không trẻ con đến mức phải bịa nên một quá khứ cho chính nó: sự giàu có về thơ ca chính là đặc điểm nổi bật nhất. Vì sự phát triển của văn xuôi, nó đòi hỏi một sự nghiêm ngặt nhất định, một trạng thái xã hội khác biệt và một truyền thống: văn xuôi có chủ đích, được xây dựng; thơ ca lại tuôn trào, nó trực diện còn không thì hoàn toàn bịa đặt; đặc quyền của những người tiền sử hoặc của những kẻ duy mỹ, nó nảy nở chỉ ở phía gần hay xa của nền văn minh, nhưng không bao giờ ở trung tâm. Trong khi văn xuôi đòi hỏi thiên tài được suy tính trước và ngôn ngữ kết tinh, thơ ca lại tương thích hoàn hảo với thiên tài man rợ và một ngôn ngữ vô định hình. Sáng tạo văn chương là sáng tạo văn xuôi.

*

Còn gì hiển nhiên hơn sự thật rằng quá nhiều người sở hữu phương thức biểu đạt không gì hơn thơ ca? Thậm chí những người không có thiên khiếu hội họa đặc biệt, trong trạng thái bị bật rễ, dựa trên hành động loại trừ trong vô thức, cộng thêm tài năng họ sẽ không bao giờ tìm thấy trong hiện hữu bình thường.

Dưới bất kỳ hình thức và nguyên nhân nào, lưu đày – ở khởi điểm – là một trường phái của sự say sưa. Và không phải tất thảy mọi người đều say sưa. Đấy là một hoàn cảnh giới hạn và giống như những điểm tận cực của trạng thái thơ ca. Được đưa ngay đến trạng thái ấy không phải là một đặc ân nếu không có đường vòng kỷ luật thì không gì hơn lòng nhân từ của số phận. Hãy nghĩ về Rilke, người xa lạ với deluxe4, và trong vô số sự đơn độc ông phải tích lũy để tất toán với những mối quan hệ, để đặt chân vào điều vô hình. Tồn tại không nơi chốn không hề dễ dàng, khi không có điều kiện bên ngoài bắt buộc bạn phải làm vậy. Thậm chí cả những người huyền bí chỉ đạt được askesis5 khi trả giá bằng nỗ lực man rợ. Để bản thân thoát khỏi thế giới – Một nỗ lực hủy diệt vĩ đại biết bao! Những kẻ lưu đày đạt được điều ấy mà không mất cọng tóc nào, bằng sự phối hợp – tức là sự thù địch – của lịch sử. Không tra tấn, không có những buổi thức trắng đêm để hắn ta lột bỏ mọi thứ, những sự biến ép buộc hắn. Theo nghĩa nào đó, hắn như những kẻ yếu ớt đặt bản thân vào siêu hình học hoặc thơ ca mà không có ích lợi cá nhân, bằng sự trợ giúp của bệnh tật? Một sự tuyệt đối tầm phào? Dù chưa được chứng minh nhưng có thể những kết quả đạt được bằng nỗ lực vượt qua về giá trị kết quả xuất phát từ sự đầu hàng với những điều không thể tránh khỏi.

*

Mối nguy hại tới thi sĩ lưu đày chính là khi y thích nghi với số phận, không còn đau khổ vì nó, tận hưởng chính số phận ấy. Không ai có thể giữ mãi đau buồn ở thời hoàng kim, chính bản thân họ cũng cạn kiệt. Điều này cũng đúng với nỗi nhớ cố hương hay niềm hoài niệm. Nỗi tiếc nuối mất đi vẻ hào nhoáng, chính động lượng của tiếc nuối làm hao mòn chính chúng, và sau vẻ thời trang tao nhã, chúng nhanh chóng trở nên vô dụng. Điều hiển nhiên sau đó là đặt bản thân vào cảnh lưu đày, Thành phố Không nơi chốn, một patrie6 đảo ngược? Đến mức hắn say sưa với nó, thi sĩ làm xói mòn chất liệu cảm xúc, nguồn lực cho những khốn khổ cũng như những giấc mộng về vinh quang. Lời nguyền – thứ đem lại cho hắn niềm kiêu hãnh và ích lợi – không còn hành hạ hắn, hắn đánh mất, cùng với nó, cả năng lượng của trạng thái đặc biệt và lý do cho sự đơn độc của mình. Địa ngục khước từ, hắn cố gắng vô vọng nhằm khôi phục lại bản thân ở đó, được hồi sinh bởi nó: đau khổ của hắn, giờ đây quá nhẹ, sẽ mãi khiến hắn ta không còn xứng với nó. Những lời than vãn mà ngày hôm qua hắn vẫn còn tự hào đã trở thành sự cay đắng, và sự cay đắng không trở thành thơ: cay đắng sẽ đưa hắn ra khỏi địa hạt thơ ca. Còn đâu những bài hát, còn đâu những sự quá mực. Vết thương được chữa lành, chỉ trỏ vào chúng để chiết ra những giọng nhất định trở nên vô ích: tốt nhất thì hắn ta cũng chỉ trở thành kẻ mô phỏng nỗi đau của chính mình. Một sự sụp đổ đáng kính chờ đợi hắn. Thiếu đi tính đa dạng, suy tư nguyên bản, hắn cạn kiệt cảm hứng. Sớm thôi, y sẽ cam chịu giấu tên và thậm chí còn bị hấp dẫn bởi chính sự tầm thường của mình, hắn sẽ cho rằng chiếc mặt nạ của tư sản không từ nơi nào cụ thể. Do vậy hắn chạm đến hồi kết cho sự nghiệp trữ tình, điểm ổn định nhất trong sự thoái trào của hắn.

*

“Sửa chữa,” lập nên trong sự thoải mái trong cú rơi của hắn, hắn sẽ làm gì kế tiếp? Hắn sẽ lựa chọn giữa hai dạng cứu cánh: đức tin và khiếu hài hước. Nếu hắn kéo theo vài vết tích bất an, hắn sẽ dần tất toán chúng bằng hàng ngàn lời cầu nguyện; trừ phi hắn an ủi bản thân bằng sự trấn an của siêu hình học, thú tiêu khiển của những thi sĩ kiệt sức. Và giả như ngược lại, hắn có thiên hướng chế nhạo, hắn sẽ tối thiểu những thất bại đến mức vui mừng trong chính thất bại. Theo tính khí của mình, hắn do vậy sẽ hy sinh cho lòng mộ đạo hoặc cho sự châm biếm. Trong cả hai trường hợp, hắn sẽ chiến thắng tham vọng của mình, như chiến thắng sự bất hạnh, để đạt mục tiêu cao hơn, để trở thành một nạn nhân đứng đắn, một kẻ bị ruồng bỏ đáng kính.  

(Bản dịch này được chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh “The Temptation to Exist” của Richard Howard và xuất bản bởi Arcade Publishing.)

Chú thích:

  1. Bản dịch tiếng Anh “frissons that dates” ↩︎
  2. Bản tiếng Anh “The Terrible” ↩︎
  3. Tạp chí émigré: tạp chí dân lưu vong ↩︎
  4. sang trọng, xa hoa ↩︎
  5. askesis trong tiếng Hy Lạp chỉ sự rèn luyện và tu tập khổ hạnh ↩︎
  6. patrie trong tiếng Pháp là tổ quốc quê hương nên partrie đảo ngược có thể Cioran ngụ ý một quê hương bị từ bỏ, nơi con người ta không còn thuộc về. ↩︎
Lên đầu trang